Pages

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Triết lý giáo dục "Xanh"

Triết lý giáo dục "Xanh"

Bàn về triết lý giáo dục Việt Nam hiện đại, Tiến sĩ Nguyễn Viết Thịnh cho rằng khi con người phát triển hài hòa cả về trí tuệ, nhân cách và nghị lực trong một thế giới văn minh, có xu thế sống gần với thiên nhiên hơn, thì đó được gọi là Triết lý giáo dục "Xanh".



Hình minh họa. Nguồn ảnh: 123rf


Giáo dục bắt rễ từ những vấn đề cơ bản có tính ổn định và những vấn đế mới theo xu thế thời đại mà tập hợp hữu cơ của chúng thường được gọi là triết lý giáo dục (GD).

Sứ mệnh của giáo dục thời nay phải làm sao để giúp con người phát triển hài hòa cả trí tuệ, nhân cách lẫn nghị lực để con người có thể sống trong một thế giới văn minh với công nghệ hiện đại, vật chất phong phú nhưng không làm mất đi chính mình, ngược lại phải không ngừng phát triển những giá trị cốt lõi như trên để đạt được hạnh phúc thật sự. Lúc đó con người sẽ có xu thế sống gần với thiên nhiên hơn, “hành xử” với Mẹ Trái đất đúng mực hơn. Triết lý giáo dục như vậy được gọi là Triết lý giáo dục "Xanh".     

Giáo dục để làm gì


Phát triển cá nhân: Giúp mọi công dân nói chung và người học nói riêng hướng đến làm người tốt toàn diện, có tình người, có trí tuệ sáng suốt, có sức khỏe thể chất - tinh thần và nghị lực mạnh mẽ; làm nghề giỏi phù hợp với bản thân để tạo kế sinh nhai, thể hiện trách nhiệm với gia đình và góp phần phục vụ xã hội.

Phát triển xã hội: Nâng cao đạo đức, sức khỏe, nghị lực, trí tuệ cho công dân, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, cung cấp thị trường nhân lực, thị trường khoa học công nghệ cho đất nước cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới, hội nhập quốc tế phù hợp với xu thế thời đại nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa, độc lập tự chủ của các dân tộc nhằm không ngừng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, tiến bộ.

Giáo dục những vấn đề gì


Về nhân cách: Lối sống lành mạnh; tự giác, trung thực; nếp sống văn minh, cần kiệm; yêu thiên nhiên, ý thức cải thiện và bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu; sống và làm việc theo Hiến pháp & pháp luật, qui ước của cộng đồng; lòng nhân ái; quan hệ, ứng xử đúng mực với mọi người; ý thức tập thể, nổ lực vì lợi ích chung …

Về nghị lực: Xây dựng lý tưởng, hoài bão cho bản thân; bản lĩnh, tự tin vào sức mạnh tiềm tàng bên trong của chính mình; thường xuyên xem lại mình và góp ý cho những xung quanh với tinh thần xây dựng; khả năng vượt khó, quyết tâm hoàn thành công việc; biết chấp nhận và rút ra kinh nghiệm từ những thất bại để từng bước mạnh lên; khả năng tập luyện để nâng cao sức khỏe, ý chí, phòng chống bệnh tật, tai nạn, tệ nạn …

Về trí tuệ


Nhận thức: Tư duy sáng tạo, hoài nghi, phê phán; khả năng dự báo, nhạy bén, năng động để phân tích tình huống và giải quyết vấn đề trong thực tiễn cuộc sống…

Kiến thức: Tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại; kiến thức phổ thông; kiến thức khoa học đại cương; kiến thức chuyên ngành; kiến thức cuộc sống; kiến thức công cụ như ngoại ngữ, tin học …

Kỹ năng: Kỹ năng tự học & nghiên cứu khoa học, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin; kỹ năng về nghề nghiệp; kỹ năng giao tiếp (nói, viết, mạng internet …); kỹ năng làm việc độc lập và hợp tác làm việc theo nhóm; kỹ năng tự tạo việc làm và phát triển nghề nghiệp; kỹ năng cảm thụ hoặc thể hiện các loại hình nghệ thuật …

Mục tiêu cơ bản của các bậc học


Bậc Tiểu học (bao hàm cả mầm non): Chủ yếu là dạy người

Chú trọng giáo dục về nhân cách như sự hiếu thuận, lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên, tình đoàn kết, tương trợ, liêm khiết, uy tín, vượt khó, tự giác, tinh thần trách nhiệm.

Chương trình học nhẹ nhàng, vừa học vừa chơi, tạo điều kiện cho những năng khiếu, ưu điểm cũng như những hạn chế của học sinh được bộc lộ để ghi nhận và có giải pháp thích hợp.


Bậc Trung học (THCS, THPT): Nâng cao dạy người, chuẩn bị dạy nghề

Tiếp tục chú trọng giáo dục nhân cách, khả năng tự học, năng động, sáng tạo nhưng đòi hỏi ở mức độ cao hơn, thử thách lớn hơn, tự rèn luyện nhiều hơn.

Về mặt kiến thức, cần trang bị kiến thức phổ thông trên tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội để học sinh ở bậc học này có được bức tranh tri thức toàn cảnh một cách chung nhất của loài người từ xưa đến nay.


Bậc sau Trung học (trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học. Ở nhiều nước bậc học này được gọi chung là đại học) : chủ yếu dạy nghề.

Mục tiêu chủ yếu của bậc học này là trang bị những gì cần thiết nhất cho sinh viên để sau khi tốt nghiệp, họ làm được nghề đã học, có khả năng tự học hoặc học tiếp để nâng cao tay nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, mưu sinh, tự lập, tự tin vào đời. Tư duy sáng tạo, phê phán, dự báo … được đào tạo mạnh ở bậc học này.


Phương thức giáo dục (giáo dục như thế nào)


Tự học & nghiên cứu: Người học không ngừng chủ động, tích cực, ham thích tìm hiểu, nghiên cứu, đồng thời vận dụng những điều đã học & nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn để tiếp cận dần các tiêu chí trong mục tiêu giáo dục.


Người dạy (hướng dẫn): được kiểm định có đạo đức tốt và đủ khả năng để giảng dạy hoặc hướng dẫn khoa học một nội dung cụ thể nào đó trong chương trình đào tạo.


Không gian giáo dục: Dạy học & nghiên cứu trực tiếp hoặc từ xa tại bất kỳ địa điểm nào qua kết nối với các phương tiện thông tin đại chúng.


Thời gian giáo dục: Không nên hạn chế thời gian giáo dục cho một bằng cấp, đề tài cụ thể. Xu thế thời đại là học tập suốt đời.


Hạ tầng giáo dục (điều kiện nào cho giáo dục)


Các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến giáo dục: Tạo khung pháp lý nhất quán, khoa học, thông thoáng để định hướng tốt cho giáo dục có thể phát triển mạnh mẽ, hiệu qủa, phù hợp với tình hình thực tiễn cuộc sống ở địa phương, trong vùng, trong nước, trong khu vực và xu thế thời đại.


Cơ sở vật chất & tài chính: Giáo dục giúp nâng cao dân trí và cung cấp nguồn nhân lực cho mọi ngành nghề trong xã hội nên cơ sở vật chất & tài chính của giáo dục cần phải được chia sẻ từ ngân sách nhà nước, bản thân người học, gia đình và hầu hết các ngành nghề trong xã hội.


Hệ thống quản lý điều hành: Cần phân quyền quản lý đến tận mỗi người học, người dạy. Mỗi người dạy, người học trước hết phải tự quản lý được vấn đề dạy-học của mình. Tiếp đó cấp cơ sở (trường, viện…), cấp phòng, khoa cũng được phân quyền mạnh. Từ đó bộ máy quản lý điều hành từ cơ sở đến trung ương sẽ tinh gọn.


Kiểm định giáo dục (xác định chất lượng giáo dục): Dựa vào mục tiêu giáo dục, các tiêu chí cụ thể và qua thực tiễn xã hội để đánh giá chất lượng sản phẩm giáo dục (người học, đề tài khoa học)


Kiểm định trong trường: Đa dạng hình thức kiểm tra, thi cử, nghiệm thu theo phương châm “nhẹ nhàng, hiệu qủa” nhằm từng bước giúp người học biết tự giác định hướng mục tiêu, tự điều chỉnh hợp lý trong quá trình học tập & nghiên cứu …


Kiểm định ngoài trường (xã hội): Không gian xã hội nơi sinh sống, nơi làm việc; gia đình, dòng tộc; láng giềng, xóm phường; hội đoàn; nơi công cộng … sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp giúp đánh giá chính xác hơn chất lượng sản phẩm giáo dục cụ thể của một cơ sở giáo dục.
 TS. Nguyễn Viết Thịnh 
Nguồn: Vietnamnet.vn

Việt Nam vẫn đang đi tìm triết lý giáo dục?

Việt Nam vẫn đang đi tìm triết lý giáo dục?


Triết lý giáo dục Việt Nam là vấn đề được thảo luận sôi nổi tại cuộc hội thảo do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức tại ĐH Sư phạm TP.HCM ngày 19/8. Trong khuôn khổ một buổi sáng, hội thảo mới chạm tới phần khái niệm vốn bị coi là quá rộng lớn và có thể gây tranh luận trái chiều. 13 ý kiến phát biểu tại hội thảo đã được ban tổ chức ghi âm lại để nghiên cứu.

Triết lý giáo dục là vấn đề đã được đề cập tới từ hơn chục năm nay qua nhiều hội thảo, tuy nhiên, dưới con mắt của nhiều nhà giáo dục, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách tận cùng, dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề mà nền giáo dục đang phải gánh chịu.


Toàn cảnh hội thảo triết lý giáo dục VN. (Ảnh: Thanh Tuyết)
Cải cách giáo dục càng đuối vì thiếu triết lý

Ông Nguyễn Chương Nhiếp đến từ Trường ĐHSP TP.HCM đặt vấn đề: Gần 40 năm cải cách giáo dục, không phải chúng ta không nỗ lực, không đầu tư đúng mức, nhưng càng cải cách, giáo dục càng đuối, càng lạc hậu so với nhu cầu thực tiễn.

"Chúng ta đã viết lại sách giáo khoa không biết bao nhiêu lần, cử các đoàn cán bộ quản lý đi học tập nước ngoài, mang tiền đi mua cả những bộ chương trình tiên tiến...Chúng ta nỗ lực đổi mới rất nhiều, tiền bạc không thiếu, quyết tâm có thừa, song hình như kết quả chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của Việt Nam hiện nay".

 Theo quan sát của ông Nhiếp, có vẻ như các nhà giáo dục đang lúng túng, chưa biết làm cách nào thoát ra khỏi tình trạng hiện nay.

Ông dẫn dụ: "Đúng là chúng ta đã và đang có triết lý giáo dục rồi, triết lý đó đã được cha ông ta xây dựng từ hàng ngàn năm nay và đã phát huy tác dụng của nó trong lịch sử. Tuy nhiên, triết lý đang có không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội của thế kỷ 21, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Triết lý ấy cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi Nho giáo và ý thức hệ phong kiến".

TS Nguyễn Thị Ngọc, Viện Nghiên cứu giáo dục thuộc Trường ĐH Sư phạm TP.HCM đồng tình: Hiện nay, chỉ thấy các em học hành miệt mài còn các môn năng khiếu và thể thao thì cả phụ huynh và nhà trường không thấy tầm quan trọng của nó. Tôi rất khâm phục Singapore khi họ đưa môn giáo dục thể chất quan trọng như các môn thi quốc gia khác, điều đó cho thấy họ có một triết lý giáo dục rất cụ thể.

Hiện nay các biện pháp về giáo dục đều chắp vá, chẳng hạn đi kiểm tra thấy nhà vệ sinh trường học bẩn thì lập tức xây hàng loạt các nhà vệ sinh, cân cặp của học sinh thấy nặng thì giảm tải chương trình. Điều đó chứng tỏ ta thiếu một triết lý giáo dục.

Thế nào là triết lý giáo dục?


GS Thái Duy Tuyên, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam phát biểu: Ta có triết lý, nhưng mà giờ chỉ cần tổng kết lại. Dân tộc ta đã sản sinh ra nhiều thầy giáo giỏi như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...nhưng những tác phẩm về triết học giáo dục có hệ thống chưa xuất hiện. Ông cha ta đã vận dụng triết học để giải quyết thành công các vấn đề thực tiễn nhưng chưa biên soạn được những tác phẩm lý luận lớn và có hệ thống. Vì thế, đó là việc mà giờ đây chúng ta phải làm.
Năm 2007, sau một hội thảo về triết lý giáo dục, nhà văn Nguyên Ngọc bình luận, nghe các đại biểu ngày đó nói, ông càng thấy rối. Ông viết trên Tuổi Trẻ: "Ít ra trong diễn đàn giáo dục do giáo sư Hoàng Tụy khởi xướng cách đây năm năm, vấn đề này đã được nói đến rất nghiêm túc, khá sâu sắc, và được coi là nguồn gốc của mọi sai lầm đang diễn ra trong nền giáo dục mà chúng ta đang bức xúc bàn thảo hiện nay."
Theo ông Nguyễn Chương Nhiếp, ĐHSP TP.HCM: Triết lý giáo dục là hệ thống những quan điểm chung nhất về bản chất và quy luật của giáo dục. Nó phải trả lời được các câu hỏi: bản chất của GD là gì, GD có đặc điểm cơ bản nào, mục đích, sứ mệnh của GD là gì, nhằm đào tạo ra con người như thế nào, động lực của GD là gì, GD chịu sự chi phối của các yếu tố nào, GD chịu được tác động của những quy luật nào.

"Không có triết lý GD chung cho mọi thời đại, mọi quốc gia. Theo tôi, triết lý GD VN hiện nay là: mục đích cải tạo con người VN khoẻ về thể chất, sáng về trí tuệ, độc lập về tư duy, giàu lòng nhân ái, đẹp về ước mơ, mạnh về ý chí, nghị lực, năng động, sáng tạo.

Ông Hồ Văn Liên, giảng viên môn lịch sử giáo dục VN và thế giới, ĐHSP TP.HCM cho biết:

Trước hết, phải xác định được con người hiện đại là như thế nào, thậm chí dự đoán được con người trong tương lai sẽ như thế nào. Con người có ba phần cần phải quan tâm: thể chất, tâm lý, xã hội. Giáo dục nhân cách phải quan tâm đến cả ba mặt này. Khi soi sáng vấn đề đó vào giáo dục, chúng ta thấy GD là sự hướng tới để chuẩn bị cho trẻ em thành con người như thế nào để đưa đất nước vào thời kỳ hiện đại hội nhập.

"Tôi đề nghị Bộ GD-ĐT rút ngắn lại chương trình học văn hoá để phát triển toàn diện. Chương trình chỉ nên dạy 5 môn: Toán, Văn, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội, Ngoại ngữ. Còn lại, để cho các trường chủ động để phát triển năng khiếu, phát triển hứng thú và nhân cách cho học trò", ông Liên nói.

GĐ ĐHQG TP.HCM Phan Thanh Bình
Ông Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG TP.HCM đề cập về triết lý giáo dục dưới con mắt của một người làm thực tiễn:

Tôi cho rằng trước tiên phải có hệ thống lý luận và triết lý cho hệ thống quản lý, và thứ hai là điều kiện (cơ chế) xã hội đối với giáo dục như thế nào, đánh giá của xã hội đối với giáo dục và trường học.

"Có ba loại nền giáo dục: Một là đi trước và định hướng phát triển cho xã hội, hai là phục vụ cho phát triển xã hội, ba là nền giáo dục làm rối ren cho phát triển xã hội. Chúng ta đang vươn tới cái thứ nhất và thứ hai thì bị cái thứ ba kéo chúng ta lại. Nền giáo dục đó do doanh nghiệp, do những người cần bằng cấp đào tạo bằng cấp A, B, C, D gì đó. Chúng ta đang chạy theo điều đó- cũng là một triết lý.

Một mối lo ngại rất lớn là chúng ta đang phải cạnh tranh với nước ngoài ngay trên chính mảnh đất của chúng ta. Chúng ta với một đồng lương thấp và một giá trị cao và một bên là mức lương ngàn đô thì không thể cạnh tranh nổi. Triết lý giáo dục phải đặt ra hết sức quyết liệt ở chỗ này."

Mặc dù hội thảo về triết lý giáo dục chỉ diễn ra trong một buổi sáng, với 13 ý kiến phát biểu trực tiếp và 20 tham luận được in thành kỷ yếu nhưng chủ đề hội thảo vẫn là mối quan tâm rất lớn, thể hiện qua phần tranh luận hăng hái. Hiện khái niệm thế nào là triết lý giáo dục vẫn chưa được làm rõ, và vì thế, đây là vấn đề vẫn được các nhà nghiên cứu và giáo dục thảo luận.

 VietNamNet sẽ lần lượt giới thiệu ý kiến của các nhà giáo dục về triết lý giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh các nhà cải cách đã từng thuyết phục dư luận về chương trình, sách giáo khoa cần phải bắt nhịp thế giới, nhưng trong quá trình thử nghiệm, đã phải giảm tải trong năm học này vì xã hội kêu ca. Mời bạn đọc tham gia diễn đàn này cùng với các nhà khoa học để tìm ra được triết lý giáo dục đúng đắn nhất mà VN cần trong giai đoạn hiện nay. Những ý kiến trao đổi xin gửi về bangiaoduc@vietnamnet.vn. Trân trọng cảm ơn.
  • Hương Giang

CÁC TRAO ĐỔI
GS Phạm Minh Hạc (chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về "triết lý giáo dục"):

Ở các nước, triết lý giáo dục không chỉ ở tầm quốc tế, quốc gia mà còn ở trong từng trường. Trong khoảng tháng 10 sẽ xuất bản hai cuốn sách về triết lý giáo dục được biên soạn bởi các nhà nghiên cứu và giáo dục để giúp cho các nhà quản lý, giáo viên có thể áp dụng vào thực tiễn, hoặc có thể tranh luận, phản bác.



Ông Hồ Thiệu Hùng
Ông Hồ Thiệu Hùng
, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM:

Giáo dục không nên tự đặt cho mình một mục tiêu đầy tham vọng đối với từng con người mà phải làm những nhiệm vụ sau:


Cung cấp cho người học những hiểu biết cơ bản với nhu cầu của thời đại, khơi dậy lòng ham học hướng dẫn cách học và tự học, giúp người học biết tư duy độc lập, không lãng phí các tiềm năng bẩm sinh của con người, giúp con người có tư duy độc lập.

Chính từ "rập khuôn" là thủ phạm đã khiến cho cơ chế của nề giáo dục việt nam thiếu dưỡng khí, phát triển èo uột so với nền khoa học các nước, ít khi đạt đến tầm vóc là phát hiện ra được cái mới.

Tình trạng này phải được thay đổi. Thế hệ trẻ VN dứt khoát phải trở thành thế hệ con hơn cha. Vậy nên, muốn đổi mới căn bản toàn diện GD đào tạo trước hết phải yêu cầu nhà trường giúp cho người học biết tư duy độc lập, khuyến khích dám tư duy độc lập, không sợ sai, không sợ trái bài văn mẫu.

Khuyến khích tư duy độc lập là một khâu đột phá trong đổi mới giáo dục Việt Nam trong nhiều thập kỉ tới.

Thứ hai, không lãng phí các tiềm năng bẩm sinh của con người. Khoa học đã chứng minh được rằng công suất của bộ não mới chỉ phát huy được 1%. Chỉ cần phát huy từ 3 đến 5% công suất của bộ não là đã có thể trở thành thiên tài.

Và đây chính là vấn đề giáo dục cần phải thay đổi, liên quan đến vấn đề khai thác tiềm năng sẵn có của trẻ em và con người về trí thông minh.

Lâu nay chúng ta vẫn quan niệm rằng những HS giỏi toán là học sinh thông minh, kém toán là kém thông minh, HS giỏi toán và giỏi cả văn là HS giỏi toàn diện vì thường giỏi luôn các môn còn lại. Học sinh kém cả toán lẫn văn là HS dở toàn diện.

Tai hại hơn khi giáo viên nghĩ rằng chính những em học giỏi mới thành đạt và ngược lại. Điều ấy khiến các em tự ti trong học tập và như vậy nhà giáo dục thay vì khai sáng đã làm u tối tâm hồn của trẻ em.

Đại biểu Nguyễn Minh Hoạt: Nhận thức sự am hiểu về triết lý giáo dục dạy làm người đang còn nhiều giới hạn trong hệ thống quản lý của ngành. Khoa học GD chậm phát triển, không đủ sức chuyển tải triết lý cao cả của GD vào cuộc sống.

Chế độ chính sách cho giáo viên và cán bộ quản lý là những vấn đề mà chính sách GD cần phải quan tâm. Trong thực tế chúng ta chưa thật sự quan tâm đến nơi đến chốn, dẫn đến những hệ lụy khác theo sau kéo dài. Nếu am hiểu triết lý giáo dục thì phải nâng niu người thầy giáo để họ sống tốt, trở thành những tấm gương cho thế hệ trẻ.

Triết lý GD VN được thể hiện khá sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện đại hội Đảng. Muốn có triết lý giáo dục VN vững bền thì phải có bộ máy TW điều hành.
  • Diệu Thanh- Ánh Tuyết (Ghi)
Nguồn: Vietnamnet.vn

Con đường cứu nước thực tiễn Hồ Chí Minh


 Con đường cứu nước thực tiễn Hồ Chí Minh

Khi tất cả các cuộc khởi nghĩa đầu thế kỷ XX đều phải hứng chịu thất bại và trong điều kiện lịch sử dân tộc cũng như thế giới đang đặt ra những vấn đề thời đại thì Hồ Chí Minh đã xuất hiện. Người không chỉ kế thừa những truyền thống tốt đẹp của quá khứ dân tộc như nhiều nhà yêu nước khác đương thời mà còn vượt lên trên họ, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn nhất, đáp ứng tốt nhất những yêu cầu phát triển của lịch sử dân tộc.

1. Cuộc khủng khoảng đường lối đầu thế kỷ XX của cách mạng Việt Nam, nhìn một cách khái quát có thể rút ra hai kết luận: thứ nhất, bản thân cuộc khủng hoảng khẳng định tinh thần yêu nước và ý chí giành độc lập không gì dập tắt được của nhân dân Việt Nam, vì nếu nhân dân ta cam chịu nô lệ thì đã không có cuộc khủng hoảng ấy. Thứ hai, tính bất diệt của nền độc lập dân tộc, trong đó các điều kiện lịch sử đã hối thúc nhân dân ta phải đi tới cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua việc lựa chọn những giải pháp lịch sử tích cực mang tính thời đại.

Nếu bám chắc vào các xu hướng vận động của lịch sử hồi đầu thế kỷ XX thì thời cuộc đã thay đổi. Khác xa với kẻ thù truyền thống, kẻ thù mới của dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc cấu kết với các thế lực phản động của lịch sử trung cổ, hiện ra như một sức mạnh tiên tiến hơn, hiện đại hơn trước một nước Việt Nam cũ của các vua cuối cùng dưới triều Nguyễn. Nền quân chủ phong kiến Việt Nam với thể chế chính trị Nho giáo chính thống từ cuối thế kỷ XIX đã hoàn toàn bất lực trước chủ nghĩa tư bản phương Tây. Có thể nói sai lầm trong chính sách đối ngoại của triều Nguyễn do ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đã đưa đất nước trượt đi một cách chậm chạp trên con đường suy thoái. Sự lộng lẫy bề ngoài của các kiến trúc cung đình Huế che dấu bên trong một tình trạng đình trệ kinh tế sâu sắc, một chủ nghĩa dân tộc bảo thủ cực đoan và xơ cứng. Đó cũng là tình trạng chung của những quốc gia chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Trung Quốc truyền thống đang ở vào thời điểm không thể đáp ứng được với thời cuộc, bị động và lúng túng trước sức mạnh vật chất hóa của tư bản chủ nghĩa phương Tây.

Trước hành động xâm lược ngày càng được đẩy mạnh của thực dân Pháp, sau một thời gian chống cự yếu ớt, nhà nước phong kiến Việt Nam đó đã mất hết ý chí chống ngoại xâm và ngày càng đi vào con đường khuất phục đầu hàng Pháp. Ý thức yêu nước cuối cùng của một vài ông vua triều Nguyễn như Hàm Nghi (1884 – 1885), Thành Thái (1889 – 1907), Duy Tân (1907 – 1916) cũng bị thực dân Pháp vô hiệu hóa. Các cuộc khởi nghĩa nông dân mà tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài hàng chục năm và tiếp đến là các phong trào đấu tranh mang màu sắc dân chủ tư sản đều lần lượt thất bại. Nghiên cứu về giai đoạn này của lịch sử Việt Nam, nhà sử học Italia Pino Tagliazudu Perugia nhận định: “Vào thời đại đó vấn đề chưa thật rõ ràng và nếu chính sách thuộc địa của Pháp theo gương người Anh để cho giai cấp tư sản bản xứ một khoảng không gian phát triển thì những người cải cách sẽ có thể là những người phát ngôn đích thực của giai cấp đó. Trái lại, bị bóp nghẹt trong trạng thái yếu đuối và lệ thuộc, giai cấp tư sản Việt Nam phải đương đầu cái logíc tư bản chủ nghĩa mà không bao giờ trở thành lãnh đạo dân tộc” (1).

Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã đặt ra những vấn đề thời đại của dân tộc và khắc khoải trong tâm tưởng các nhà cách mạng khi mà những cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều phải hứng chịu thất bại. Đây chính là hiện thực xã hội, là động cơ thúc đẩy xu hướng vận động mới của lịch sử và khi nói rằng, dân tộc ta đã sinh ra Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là theo ý nghĩa xã hội mà tiền đề là hiện thực ấy.

2. Lịch sử cũng cho thấy là không thể trông cậy vào lực lượng nào khác ngoài lực lượng của nhân dân ta để giành lấy nền độc lập dân tộc. Nhưng lực lượng đó còn đang vận động trong các phương thức cổ truyền. Về mặt lý thuyết, có thể giả định nếu không có sự xuất hiện của học thuyết cách mạng mác xít ở châu Âu, nếu không có Lênin và Cách mạng Tháng Mười, nếu không có hình thái Quốc tế của sự liên minh vô sản thế giới trong Quốc tế thứ ba, thì kết quả cuộc ra đi của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành có thể không dẫn tới sự xuất hiện nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Nhưng lịch sử thì không có giả định mà lại chứng minh rằng, trong hoàn cảnh quốc tế như vậy, nếu không có người con của một dân tộc có truyền thống yêu nước như dân tộc Việt Nam mà người con ấy lại không kế thừa đầy đủ truyền thống quý báu đó, không có một nhân cách lớn lao, một trí tuệ sáng suốt và một ý chí sắt đá quyết tìm bằng được con đường cứu nước thì lịch sử đã không diễn ra như nó vốn có.

Ngay tại Pháp, anh Nguyễn đã mở một đột phá khẩu cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam trong hiện thực đời sống thế giới đương đại, tiếp cận đến các phương thức hoạt động mới. Sự thật là bọn thực dân Pháp ở Đông Dương tỏ ra sợ hãi trước các tờ truyền đơn và sách báo của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc hơn là các cuộc khởi nghĩa tại Việt Nam mà về căn bản không khác gì các cuộc khởi nghĩa chống phong kiến trong lịch sử. Nói cho công bằng thì bọn chúng tỏ ra không lo ngại lắm trước lực lượng của cụ Đề Thám, vẫn triển khai làm đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn và dàn xếp một cuộc ngưng bắn tạm thời. Thế mà, chỉ một tờ "Le Paria" (Người cùng khổ) và các hoạt động tuyên truyền của nhà cách mạng hiện đại Nguyễn Ái Quốc đã làm rúng động một loạt quan chức chóp bu của chính quyền thực dân, đến nỗi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa phải mời Nguyễn Ái Quốc đến gặp và đe dọa, đồng thời có cả một mạng lưới theo dõi các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - con người chưa có một tấc sắt trong tay, “chỉ dựa vào lực lượng của chính nghĩa và cảm tình của giai cấp công nhân Pháp, nhất là công nhân Pa- ri” (2).

Thực dân Pháp đã kịp phát hiện ra một phác thảo tương lai con đường cứu nước mới của nhân dân Việt Nam qua các hoạt động theo một cách thức mới của Nguyễn Ái Quốc. Cách thức hay phương thức đó chính là phương thức thực tiễn Hồ Chí Minh đảm bảo cho nhân dân Việt Nam giành lại quyền sống của mình trong bối cảnh mới của đời sống chính trị thế giới hiện đại, khác với con đường của hai cụ Phan hay tấm gương hy sinh của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông. Đó là lý luận khoa học của chủ nghĩa cộng sản khoa học, là cương lĩnh về một phương thức nhân loại hiện đại hơn, bởi vì nó xuất phát từ bản chất thực tiễn của nhân loại. Mác đã nhấn mạnh rằng, người cộng sản là nhà duy vật thực tiễn. Lý luận cách mạng mà Mác, Ăngghen sáng tạo ra và sau này Lênin phát triển, là một phương thức cao hơn tư bản. Hạt nhân của hệ thống lý luận ấy là thực tiễn, là hoạt động con người và bản chất con người. Chính điều này đã lý giải một cách chính xác, nhờ trải qua thực tiễn mà khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc mặc dù chưa hề được học tập lý luận cách mạng Mác - Lênin nhưng đã tin theo ngay Lênin và Quốc tế III, không một chút do dự, như một lẽ tự nhiên (3).

Nguyễn Ái Quốc là người yêu nước. Yêu nước ở Nguyễn Ái Quốc là thế nào? Ngai vàng, hoàng đế như các vua chúa triều Nguyễn ư? Hay trở thành chính khách, thủ lĩnh, tổng thống? Ở Nguyễn Ái Quốc, yêu nước là yêu dân, thương dân - yêu dân như yêu chính mình, bà con mình, yêu những người nghèo khổ như mình - một người bồi tàu, quét tuyết, thợ ảnh... Một người mất nước và nghèo khổ đi làm cách mạng chiến đấu cho sự thay đổi thân phận nô lệ của dân tộc mình. Đây là nét riêng về cội nguồn của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, yêu nước và thương dân là hành trang đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc, trước khi Người đến với chủ nghĩa Mác như chính Người đã khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” (4).

Chủ nghĩa Mác đến tự nhiên nhưng lại gắn với chủ nghĩa yêu nước, với đấu tranh giai cấp, gắn giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc (5). Đây là con đường phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam vì dân tộc Việt Nam chỉ đi con đường này mới đến thắng lợi. Sau này, khi đã giành được độc lập dân tộc rồi, trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc lập dân tộc không đồng nghĩa với biệt lập hoặc cô lập với thế giới mà phải đi đôi với việc chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở xử lý đúng đắn quan hệ giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc tế. Có thể nói, dân tộc - giai cấp - nhân loại là một chỉnh thể không đối lập trong tư tưởng - chính trị Hồ Chí Minh cũng như trong toàn bộ đường lối cách mạng của Người. Tại Đại hội XI của Đảng, tư tưởng này của Người tiếp tục được Đảng ta nâng cao và khẳng định: “Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, hòa bình, hợp tác và phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và Luật pháp quốc tế” (6).

3. Sau khi đã thành người cộng sản, con đường cứu nước đã hình dung trong tư tưởng mình thì con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là lựa chọn đầu tiên và cũng là cuối cùng của Nguyễn Ái Quốc. Khác với Phan Bội Châu, lập trường được chuyển dịch sau những thất bại, qua nhiều lựa chọn, Nguyễn Ái Quốc chiêm nghiệm, suy ngẫm, tìm kiếm, bắt gặp và chỉ lựa chọn có một lần: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng nhân dân mang tính thời đại sâu sắc.

Việc xác định chủ thể của cách mạng là nhân dân, sau đó được chính xác hóa là nhân dân lao động, trước hết là công nhân và nông dân quy định toàn bộ các hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong tất cả các giai đoạn cách mạng. Hoàn thiện sứ mạng lịch sử ấy là công lao lịch sử vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là phương thức cơ bản nhất làm cho cuộc cách mạng của dân tộc ta trở thành một cuộc cách mạng tiên tiến của thời đại, là phương thức chủ yếu biến dân tộc Việt Nam thành một dân tộc hiện đại, hòa vào dòng tiến hóa chung của nhân loại. Chính vì thế mà con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn lúc nào cũng giữ nguyên ý nghĩa thời sự trong tất cả các giai đoạn cách mạng đã qua và sẽ tới. Có thể nói ngày nay nó trở thành nền tảng của tư duy chính trị và định hướng cho công cuộc đổi mới đang được đẩy mạnh ở nước ta.

Khi đặt vấn đề xây dựng chủ thể mới của cách mạng là nhân dân lao động, là cố kết cộng đồng ấy thành một cơ thể thống nhất, ý thức rõ rệt hoạt động của cộng đồng vào một xu hướng vận động chung, là một nhà cách mạng từng trải, giàu kinh nghiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ ảo tưởng trong cách đặt vấn đề và trong hoạt động. Công việc này Người làm suốt đời, không lúc nào ngừng, làm từng bước, bước sau có yêu cầu, cách thức cao hơn bước trước, dần dần đến giai đoạn chín muồi thì chuyển những đặc trưng cơ bản của nó thành một hình thức chính, một chế độ chính trị có hình thức pháp chế.

Đời sống xã hội cũng tuân theo tính tất yếu khắc nghiệt như đời sống tự nhiên nhưng có đặc thù là luôn luôn phản ánh kết quả trực tiếp của hoạt động con người. Sự nghiệp giành độc lập dân tộc, trước hết là kết quả hoạt động đấu tranh của toàn thể nhân dân Việt Nam, với tư cách là một cộng đồng dân tộc. Cộng đồng ấy chính là chủ thể hoạt động. Đó là đặc trưng đầu tiên của một cuộc cách mạng hiện đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mối liên hệ nội tại của chủ thể cộng đồng là các quan hệ xã hội mà bản chất là các quan hệ về lợi ích. Nhưng cũng như chủ thể cá nhân, hoạt động của một chủ thể cộng đồng cũng phải được thống nhất trong sự chi phối chung của một cơ quan có chức năng không khác gì cơ quan thần kinh trung ương của chủ thể cá nhân. Trình độ và sức mạnh hoạt động của chủ thể tùy thuộc vào tính thống nhất có cơ cấu vận hành của nó, mà nếu không có thì cộng đồng người sẽ không khác gì bất kỳ một chủng loại nào khác. Hiện thực cách mạng ở nước ta đã khẳng định điều đó. Đảng Cộng sản Việt Nam rõ ràng là một trong những nguyên nhân cơ bản và quyết định nhất dẫn tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam, với tư cách là bộ tham mưu toàn diện của sinh mệnh cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tạo ra từ cơ thể xã hội cổ truyền của nhân dân ta bộ tham mưu hiện đại cả từ bản chất và cơ chế cũng như khả năng và phương thức vận động, để cho Đảng gánh vác được vai trò trung tâm của chủ thể cách mạng và chính Người đã trực tiếp rèn luyện, lãnh đạo bộ tham mưu ấy. Có thể nói Người đã hóa thân vào trong hoạt động của Đảng, để đến lượt mình, Đảng lại hóa thân trong hoạt động cách mạng của hàng chục triệu người, biến đổi một xã hội cũ kỹ, lạc hậu thành một xã hội mới mà xu hướng phát triển là không thể đảo ngược, phản ánh rõ nét những giá trị phổ biến và trình độ văn hóa chung của nhân loại. Nếu dân tộc ta không vươn lên ngang tầm thời đại, không nhân bản hơn, văn minh hơn, không mạnh hơn kẻ thù thì đã không thể chiến thắng trước những thế lực đen tối được xem là có sức mạnh nhất thời đại và cách mạng Việt Nam cũng không thể đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Công lao lịch sử vĩ đại ấy trước hết thuộc về Hồ Chí Minh. Có thể nói, phương thức thực tiễn Hồ Chí Minh, phương thức được triển khai song song với quá trình vận động cách mạng, chính là bí quyết thành công và là sức sống tư tưởng - chính trị của Người.

Phương thức ấy hình thành trước hết trong tư duy sáng tạo Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ kinh nghiệm sống mà Người tích lũy được, từ những kho tàng kinh nghiệm và lý luận mà Người đã tiếp thu trên cơ sở thiên tư siêu việt, ở cá nhân vĩ nhân Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là đòi hỏi của hoạt động cách mạng, bởi vì hoạt động cách mạng là hoạt động mà ở đó bản chất, trình độ và phương thức đều phải đạt tới cấp độ thực tiễn rất cao. Do đó, tư tưởng - chính trị Hồ Chí Minh về mặt khách quan, chính là phản ánh các quy luật chủ yếu, các phương thức cơ bản của cuộc vận động cách mạng Việt Nam từ khi được hình thành cho tới thắng lợi ngày nay và các viễn cảnh của nó trong tương lai.

4. Vào những năm cuối cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể của cách mạng, đặt toàn bộ niềm tin yêu vào sức mạnh của nhân dân. Trong Di chúc tháng 5-1968, Bác viết ở đoạn cuối như một lời tổng kết: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (7). Đồng thời Người cũng đặt ra yêu cầu rất cao đối với Đảng Cộng sản, bộ tham mưu chiến đấu, trung tâm lãnh đạo cách mạng và xã hội. Ngay từ lần viết Di chúc thứ nhất, ngày 15-5-1965, Người viết: “Trước hết nói về Đảng, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” (8).

Ba năm sau, vào tháng 5-1968 (trước khi qua đời hơn một năm), Người lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề Đảng, ngay ở đoạn đầu của của bản Di chúc bổ sung này, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi” (9).

Tóm lại, trong quá trình tiếp cận đến tư tưởng - chính trị Hồ Chí Minh, ở đâu, trong biểu hiện tư tưởng của Người, chúng ta thấy, từ lời nói đến việc làm và trong các chủ trương chính sách, tất cả đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân, toát lên niềm tin yêu sâu sắc vào nhân dân và thắng lợi của cách mạng. Từ “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam” năm 1919 viết trên đất Pháp gửi Hội nghị Versailles đến “Tuyên ngôn độc lập” (1945), “Hiến pháp 1946” và trong “Di chúc” của Người, bất kỳ trong hoàn cảnh nào, thời gian nào chúng ta cũng cảm nhận được sự nhất quán và tin tưởng tuyệt đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào lực lượng cách mạng to lớn của nhân dân. Dựa vào chủ thể nhân dân, xây dựng chủ thể nhân dân trên cơ sở đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đó là phương thức căn bản để đạt tới các mục tiêu lý tưởng mà con đường cách mạng Hồ Chí Minh xác định. Tư duy về nhân dân và Đảng đã trở nên rất vững chắc và chi phối toàn bộ sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Người, đây là vấn đề trọng tâm. Nếu chúng ta hoàn tất được nhiệm vụ trọng tâm này thì xu thế mới của thời đại trên đất nước ta không thể bị đảo ngược và thắng lợi của công cuộc đổi mới vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh sẽ được thực hiện một cách chắc chắn. Vấn đề trọng tâm này trong tư tưởng - chính trị Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong bài học kinh nghiệm lớn mà Đảng ta đã chỉ ra tại Đai hội lần thứ XI vừa qua, đó là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng Chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(10)./.


------
(1): Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 156.

(2): Xem T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1976, tr.14.

(3): Ngày 16 và 17-7-1920 trên báo Nhân đạo đăng hai số liền: Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, trong chuyên đề Cách mạng dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc - Người ra đi tìm ánh sáng cho dân tộc mình đã tìm được nguồn sáng. Đảng xã hội Pháp tiến hành đại hội từ ngày 25-12-1920 đến ngày 29-12-1920. Đảng xã hội chia rẽ làm hai phái: phái hữu và phái tả (70%). Nguyễn Ái Quốc ngồi về phía tay trái. 70% của phái tả ấy tách ra thành lập đảng cộng sản. 2h30 sáng ngày 30-12-1920, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên và cũng là một trong những người thành lập Đảng Cộng sản Pháp.

(4): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr. 128.

(5): Tháng 7-1935 Quốc tế cộng sản lần thứ VII họp, trong nước cử các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn (đại biểu chính thức) đi dự. Khi đoàn về Bác căn dặn: Các đồng chí phải giải phóng dân tộc đã, dân tộc chưa giải phóng thì giai cấp đến vạn năm cũng chưa giải phóng được. Nên thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và không được hợp tác với tờ-rốt-kít (tả khuynh).

(6): Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 83-84.

(7), (8), (9): Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1989, tr. 43; 35-36; 41.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 65.

PGS, TS. Nguyễn Hoài Văn
Viện Chính trị học Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
(Nguồn: tạp chí Cộng Sản)

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

10 nước có hệ thống giáo dục Đại học tốt nhất thế giới


10 nước có hệ thống giáo dục Đại học tốt nhất thế giới
Giáo dục đại học của Mỹ tốt nhất thế giới
Universitas 21 lần đầu tiên công bố bảng xếp hạng các quốc gia, vùng lãnh thổ có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất. 


Để có bảng xếp hạng trên, ĐH Melbourne (Úc) thuộc Universitas 21, mạng lưới 23 trường ĐH có nhiều nghiên cứu trên thế giới, phân tích các dữ liệu gần đây của 48 quốc gia, vùng lãnh thổ dựa trên 20 tiêu chí. Những tiêu chí này được chia làm 4 nhóm: nguồn đầu tư (từ chính phủ và tư nhân); đầu ra (nghiên cứu khoa học và tác động của nó, việc đáp ứng nhu cầu thị trường lao động); kết nối (với mạng lưới ĐH quốc tế); môi trường (chính sách, sự điều hành của chính phủ, sự đa dạng và cơ hội để người dân tham gia học tập). Yếu tố dân số cũng được xem xét để đánh giá, xếp hạng.

Theo đó, 10 nước có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất trong 48 nước và vùng lãnh thổ nói trên lần lượt là: Mỹ, Thụy Điển, Canada, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Úc, Hà Lan và Anh. Một số nước, vùng lãnh thổ ở châu Á có mặt trong bảng xếp hạng này là: Singapore (vị trí 11), Nhật Bản (20), Đài Loan (21), Hàn Quốc (22), Malaysia (36), Trung Quốc (39), Thái Lan (41) và Indonesia (47).
Tuy nhiên, nếu xét theo từng nhóm thì Mỹ không phải lúc nào cũng đứng đầu trong 48 nước, vùng lãnh thổ nói trên. Chẳng hạn, những nước có mức đầu tư của chính phủ cho giáo dục ĐH chiếm GDP cao nhất lần lượt là Phần Lan, Na Uy và Đan Mạch. Tuy nhiên, nếu gộp cả phần đầu tư tư nhân, vị trí cao nhất lại thuộc về Mỹ, kế đến là Hàn Quốc, Canada và Chile. Những nước đầu tư nhiều nhất cho nghiên cứu khoa học là Đan Mạch, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Nhóm các nước có những nghiên cứu khoa học tạo ảnh hưởng nhiều nhất lần lượt là Thụy Sĩ, Hà Lan, Mỹ, Anh và Đan Mạch. Các nước có tỷ lệ người tham gia giáo dục ĐH cao nhất là Hàn Quốc, Phần Lan, Hy Lạp, Mỹ, Canada và Slovenia. Nhóm nước, vùng lãnh thổ có nhân lực trình độ ĐH chiếm nhiều nhất trong lực lượng lao động gồm Nga, Canada, Israel, Mỹ, Ukraine, Đài Loan và Úc. Những nước có tỷ lệ sinh viên quốc tế/tổng số sinh viên cao nhất là Úc, Singapore, Áo, Anh và Thụy Sĩ. Trong khi đó, những nước có sự phối hợp nghiên cứu quốc tế nổi bật nhất lại là Indonesia, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Bỉ và Áo. 
Đánh giá về ảnh hưởng của bảng xếp hạng mới, Universitas 21 nhấn mạnh trong thông cáo của mình: “Nhằm đề cao tầm quan trọng của việc tạo ra môi trường vững mạnh cho các cơ sở giáo dục ĐH đóng góp vào phát triển kinh tế và văn hóa, cung cấp chương trình chất lượng cao cho sinh viên cũng như hỗ trợ các viện, ĐH thu hút sinh viên quốc tế”.
Giáo sư Ross Williams - người đứng đầu cuộc nghiên cứu bảng xếp hạng Universitas 21 - cho rằng hiện có một số bảng xếp hạng toàn cầu giáo dục ĐH được đánh giá cao nhưng không phản ảnh hết hệ thống giáo dục ĐH của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Do đó, bảng xếp hạng Universitas 21 sẽ hỗ trợ các chính phủ trong việc hoạch định những chính sách liên quan đến giáo dục ĐH.
Mục tiêu của Universitas 21
Được thành lập vào năm 1997, Universitas 21 là mạng lưới quốc tế gồm 23 trường ĐH có nhiều nghiên cứu khoa học tại 14 quốc gia, trong đó có Anh, Mỹ, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc và Úc. Các ĐH thành viên của
Universitas 21 có tổng ngân sách trên 25 tỉ USD và thu nhập hằng năm từ các công trình nghiên cứu khoa học hơn 4 tỉ USD. Mục tiêu của Universitas 21 là thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên và trở thành nhóm dẫn đầu thế giới trong việc quốc tế hóa giáo dục ĐH thông qua nghiên cứu và chia sẻ kinh nghiệm với cộng đồng giáo dục ĐH toàn cầu./.


Theo GDVN

Trẻ tự kỷ - cổng trường nào mở?


Trẻ tự kỷ - cổng trường nào mở? 

- Chuyên mụcGiáo dục|Đào tạo - Thi cử|
Với những người có con mắc chứng tự kỷ, nhìn thấy con ngày một trưởng thành, đến tuổi đi học, họ lại chất chứa thêm nỗi lo, chỉ mong con đừng lớn nữa. Nghịch cảnh này xuất phát từ thực tế có quá ít cơ hội cho trẻ tự kỷ (TTK) đến tuổi học tiểu học được cắp sách đến trường như bạn bè cùng trang lứa. Bắt đầu một mùa hè, bắt đầu cuộc đua tìm trường cho con của các bậc làm cha mẹ, trong đó người có con mắc chứng tự kỷ vất vả hơn nhiều. 
Giờ ăn của lớp Chích Bông - Trung tâm Sao Mai.

Nỗi niềm nuôi dạy trẻ tự kỷ

Đến giờ, khi con trai đã 10 tuổi, chị Phương Nga (phố Tân Mai, Hoàng Mai) vẫn không thể quên cảm giác hụt hẫng, buồn bã khi lần đầu đưa con đến khám ở Bệnh viện Nhi trung ương, bác sĩ nói con bị tự kỷ. Từ khi con được hơn một tuổi, chị đã thấy những dấu hiệu bất thường của con như chậm nói, không thích chơi với ai, chỉ ngồi nghịch tay, nghịch mắt. Lớn hơn chút nữa, các dấu hiệu rõ rệt hơn, con có thể ngồi im hàng giờ ngửa mặt lên trần nhà nhìn chuyển động quay tròn của cái quạt. Bất thường là thế nhưng 4 tuổi con chị đã biết nhẩm các phép tính hàng chục, thậm chí hàng trăm. Kiên nhẫn dạy con, đứa bé cũng đến được lớp mẫu giáo. Biết con mình không bình thường, chị xin nghỉ làm, ngày nào cũng đến nép ở cửa lớp nhìn con học. Chị bảo, nói thì đau lòng, cháu như con thú hoang đi giữa rừng, coi cô giáo, bạn bè như cây cỏ vậy, không có bất kỳ phép tắc nào cả. Cả lớp đang ngồi học thì con đột nhiên hét to, khóc hoặc đứng lên chạy vòng quanh, cô giáo khó chịu, các phụ huynh khác cũng bực mình. Thời điểm đó các thông tin về chứng bệnh tự kỷ còn ít, chị và gia đình tìm mọi cách dạy dỗ để mong con nhận biết được chút ít kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh. Đến khi con đủ tuổi vào lớp 1, đưa con đi khám chị mới biết mình đã bỏ lỡ thời gian vàng điều trị cho con.

Đến Trung tâm Sao Mai - một ngôi trường đặc biệt được thành lập từ năm 1995 đang chăm sóc, nuôi dạy 240 em, chủ yếu là TTK, chúng tôi lần đầu được tiếp cận với một khái niệm y học nghe rất xót xa “tuổi khôn”. Vào thăm lớp Hoa Mai, tôi chú ý đến một bé gái khá xinh xắn, tóc tết hai bên ngồi dựa lưng vào tường, đôi mắt vô hồn không biểu lộ xúc cảm trong khi các bạn khác đồng thanh chào khách theo yêu cầu của cô giáo. Hỏi ra được biết, M.H (tên bé gái) sinh năm 2002 nhưng chỉ có “tuổi khôn” của một đứa trẻ 9 tháng tuổi. Cha mẹ đưa em vào đây khi đã 5 tuổi, lứa tuổi được coi là muộn của một trẻ tự kỷ khi muốn có sự can thiệp của y học và giáo viên tâm lý. M.H không đánh nhau nhưng cũng không trò chuyện với ai, cả ngày em chỉ ngồi lặng lẽ ở góc tường, không vui chơi, không học tập. Em đã ở trung tâm được 5 năm, có tiến bộ khi tự mình làm được một số việc vệ sinh cá nhân nhưng đôi khi có những hành động kỳ quặc như gom quần áo ném vào xô, đập đầu vào tường.

Cô giáo Vũ Thu Hường, người có thâm niên gần chục năm nuôi dạy TTK ở Trung tâm Sao Mai cho biết, không có mẫu số chung nào cho hoàn cảnh gia đình của TTK. Bố mẹ của các em có thể là giảng viên đại học, nhà báo, công chức nhà nước, diễn viên điện ảnh hoặc nông dân, công nhân, lao động phổ thông... Trẻ mắc chứng tự kỷ chủ yếu là các bé trai, bé gái chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 4% nhưng em nào đã mắc là rất nặng. Mười TTK là mười phương pháp dạy khác nhau vì mỗi em mắc một tật, có em chỉ thích ăn một loại thức ăn, em khác lại chỉ nuốt không nhai dẫn đến đau dạ dày khi mới chỉ 4-5 tuổi; có em suốt buổi học chạy vòng quanh khắp phòng, nhất định không ngồi, có em chỉ thích đọc không thích làm toán, em lại chỉ muốn chui đầu vào chỗ tối... Khổ nhất là những ngày thời tiết thay đổi, có trẻ ngồi khóc cả ngày, đứa khác lại cào cấu, cắn cả cô giáo lẫn bạn học đến chảy máu. Ở Trung tâm Sao Mai, mỗi cô giáo phụ trách từ 3 đến 5 học sinh, mỗi lớp có đến 2 hoặc 3 cô nhưng không khi nào giáo viên được giải lao, có lúc muốn vào nhà vệ sinh cũng không thể…

 Chứng kiến giờ ngủ trưa của trẻ lớp Hoàng Yến - lớp gồm những em lớn tuổi nhất Trung tâm Sao Mai, mới thấy hết nỗi vất vả của các cô. Mỗi cô phụ trách ba trò, cô nằm giữa, tay vỗ lưng, tay xoa đầu, miệng kể chuyện, hát ru. Thế mà vừa bảo được em này nằm xuống thì bạn khác lại nhổm dậy, bảo nằm xuôi lại nhất định quay nằm ngược hoặc thản nhiên bước lên bụng các bạn khác...

Gian nan tìm đường đến trường

Nuôi dạy con tự kỷ khó nhọc là thế, nhưng khi con còn ở tuổi mầm non, cha mẹ còn có nơi để yên tâm gửi gắm. Đó là các trung tâm như Sao Mai, Hy Vọng, Giáo dục hòa nhập trẻ em, phòng khám ABCD, các trường mầm non Myoko, Trường Ánh Sao… Tất cả các trung tâm hay trường học đặc biệt này đều do cá nhân đứng ra thành lập, trong đó có nhiều bác sĩ ở các chuyên khoa tâm thần, tâm bệnh hoặc những giáo viên được đào tạo chuyên khoa Giáo dục đặc biệt. Thế nhưng đến tuổi vào lớp 1, TTK rất khó có một môi trường phù hợp.

Chị Nguyễn Thị Mai Anh - PCT Thường trực CLB Trẻ tự kỷ TP Hà Nội cho biết, tính đến thời điểm này đã có trên 800 gia đình đăng ký tham gia thường xuyên với hơn 1.000 thành viên sinh hoạt trên trang web tretuky.com. Từ kinh nghiệm nuôi con của bản thân và 10 năm tham gia công tác điều hành CLB, chị cho rằng TTK chia làm hai đối tượng: có thể hòa nhập và không thể hòa nhập. Với những em có khả năng hòa nhập, việc xin vào học tại các trường tiểu học phụ thuộc vào mối quan hệ cá nhân của cha mẹ. Trên thực tế, nhiều trường không muốn nhận TTK, nhiều giáo viên không muốn dạy vì lo ảnh hưởng đến thành tích chung của trường, của lớp vì TTK thường học kém, mất trật tự, vô tổ chức và bị bỏ rơi ngay trong lớp học. Các trẻ này còn bị bạn bè phân biệt, trêu chọc. Nhiều giáo viên sau đó đã gặp riêng phụ huynh, đề nghị cho con chuyển trường.

Những TTK “may mắn” hơn đã vậy, còn những trẻ không có khả năng hòa nhập thì các con sẽ đi đâu, về đâu? Đau đáu nỗi lo chung này, những người làm cha mẹ của CLB Trẻ tự kỷ Hà Nội đã tự thành lập các nhóm lớp phù hợp với lứa tuổi, nhu cầu học tập của con và quan điểm, khả năng của mỗi gia đình. Các nhóm lớp giáo dục đặc biệt mang tên Tochan, Albert Einstein và Hand in hand ra đời, do cha mẹ tự đóng góp, thuê giáo viên có kỹ năng về dạy cho các con. Chị Mai Anh cũng cho biết, đến thời điểm hiện nay, chưa có một ngôi trường nào dành riêng cho TTK, chỉ có một số trường tiểu học như Bình Minh, Bạch Mai hay Trung Tự có thêm 1-2 lớp dành cho trẻ khuyết tật trí tuệ nói chung, trong đó có TTK. Nhưng chị cũng khẳng định, việc xin được cho con vào học những lớp này là rất khó khăn, trừ khi cha mẹ có các mối quan hệ đặc biệt.

Để tìm hiểu thêm về mô hình dạy TTK hòa nhập trong trường tiểu học, 9h30 ngày 10-5-2012, chúng tôi tìm đến Trường Tiểu học Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Sau khi trình bày tên tuổi, chức vụ, lý do, nhân viên bảo vệ yêu cầu phóng viên đứng ngoài chờ để đi báo cáo hiệu trưởng. Chừng 5 phút sau, người này ra trả lời: “Hiệu trưởng bận họp, đề nghị nhà báo về gọi điện thoại”. Mặc dù đã cố giải thích rằng gọi điện thoại nhiều lần không được, đề nghị cho vào gặp văn phòng đặt lịch với hiệu trưởng, hôm khác sẽ đến làm việc nhưng nhân viên bảo vệ vẫn khăng khăng không mở cổng. Ngay cả khi đứng tại cổng trường, được bảo vệ đọc số điện thoại cố định, phóng viên cũng không thể liên lạc được với bất kỳ giáo viên nào.

Không có được thông tin chính thống từ BGH Trường Tiểu học Bạch Mai, trong vai người có con bị tự kỷ cần xin học, chúng tôi đã tiếp xúc với một người bán hàng nước nhà sát cổng trường. Và đây là nguyên văn lời tư vấn của người này mà chúng tôi ghi lại được: “Trường này có hai lớp cho TTK, mỗi lớp chỉ trên chục cháu thôi, chia ra tùy mức học phí đắt hay rẻ. Việc xin vào cũng không khó lắm, chỉ cần quen biết. Giá cả cũng tùy, trực tiếp thì chỉ 5 triệu, vòng vèo môi giới thì đến 20 triệu. Chị cần thì thứ hai tuần sau đến đây, em giới thiệu cho”.

Tại lớp học dành cho trẻ khuyết tật của Trường Tiểu học Trung Tự, cô giáo chủ nhiệm lớp Trương Thị Thanh cho biết, lớp có 27 học sinh gồm cả những trẻ bị thiểu năng trí tuệ, tự kỷ… Lớp học chia ba nhóm tùy độ nhận thức của mỗi em, tấm bảng đen cũng chia ba, bên tập viết chữ cái, bên chép chính tả, bên làm toán. Trong lúc trò chuyện với chúng tôi, cô Thanh liên tục nhắc: “H., bỏ chân xuống, N. không được gặm sách, T. ngồi vào chỗ đi con, đi đâu đấy…”. Có thể dễ dàng nhận thấy những học sinh ngoan và học được của cô Thanh chính là những em mắc chứng tự kỷ. Vậy mà để các em ngồi học cùng với những bạn bị down, thiểu năng trí tuệ… thì thật thiệt thòi cho các em. Nhưng với quy mô lớp nhỏ thế này, trong một ngôi trường có cảnh quan đẹp, có bề dày thành tích như Trường Tiểu học Trung Tự thì việc có một suất cũng đã là may mắn với nhiều bậc cha mẹ có con bị tự kỷ.

Theo Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội, năm học 2011-2012, có hơn 1.000 TTK đang học cấp tiểu học và con số này không ngừng gia tăng. Việc nhận TTK vào học là cách làm đúng, giúp trẻ hòa nhập được với môi trường bình thường, có ích trong quá trình điều trị nhưng vì các nhà trường chưa có giáo viên chuyên biệt, chưa có chế độ đãi ngộ phù hợp nên gây áp lực không nhỏ cho thầy cô. Cũng chính vì vậy, cánh cửa cho TTK vào tiểu học chưa thể rộng mở. Cần thay đổi cách đánh giá giáo viên, cập nhật kiến thức về giáo dục TTK, thành lập những lớp đặc biệt dành riêng cho TTK trong các trường tiểu học… có quá nhiều việc cần làm để góp phần giảm bớt gánh nặng cho phụ huynh và quan trọng hơn, đem đến cơ hội hòa nhập cộng đồng cho TTK.

Khi viết đến đoạn kết bài này, tôi chợt nhớ đến một bài thơ của người bố viết cho con bị chứng tự kỷ gửi cuộc thi viết: “Những cánh hạc xanh”, trong đó có đoạn: “Con lên sáu rồi con vẫn tuổi sơ sinh/ Không trường học, không bạn bè, không tất cả/ Con nghèo nàn chỉ có bố mẹ thôi…/ Bố vẫn đợi, bố luôn chờ đợi con mà!”. Ôi, thương quá, những cánh hạc xanh!...
 

5 bước để có một cuộc phỏng vấn thành công

5 bước để có một cuộc phỏng vấn thành công
Để có một cuộc phỏng vấn thành công, bạn phải để ý đến từng chi tiết nhỏ, khi bạn làm tốt những chi tiết nhỏ bạn sẽ thấy phỏng vấn tìm việc không khó như bạn tưởng.
Dưới đây là năm bước để có một cuộc phỏng vấn hiệu quả, do ông Nguyễn Xuân Trường, Giám đốc kinh doanh công ty TNHH SX - TM - DV Tân Thuận Tiến, người có nhiều năm kinh nghiệm làm phỏng vấn viên tuyển dụng nhân viên mới cho công ty Tân Thuận Tiến chia sẻ.

 
Ông Nguyễn Xuân Trường đang tư vấn kỹ năng phỏng vấn tìm việc hiệu quả

trong chương trình Phỏng vấn thử - Thành công thật tại Nhà văn hóa Thanh Niên.
Chuẩn bị hồ sơ
 Một hồ sơ xin việc gồm có đơn xin việc, sơ yếu lí lịch (cv), các văn bằng chứng chỉ, bản sao hộ khẩu, bản sao chứng minh nhân dân, phiếu khám sức khỏe, thư giới thiệu.
Đơn xin việc sẽ bổ sung những điểm mạnh của bạn, tạo nên sự khác biệt của bạn với các đối thủ vì thế lời khuyên dành cho bạn là hãy viết tay. Nếu đánh máy nên chọn Font chữ rõ ràng, đừng "lả lướt" quá, các font chữ thường sử dụng là Arial, Time New Roman, Vn Time. Không ghi kính gửi chung chung trên đơn xin việc, bao bì hồ sơ mà phải ghi rõ kính gửi ông hoặc bà (ghi rõ họ tên, chức vụ của họ).
Sơ yếu lí lịch chỉ nên trình bày trong một trang, trong đó nêu rõ vị trí dự tuyển, nhấn mạnh các kỹ năng chính có liên quan đến công việc. Làm cách nào công ty có thể liên lạc với bạn. Một vài lời hứa hẹn chân thành. Bày tỏ mong muốn thật sự muốn đóng góp cho công ty.
Các văn bằng, bản sao hộ khẩu, bản sao chứng minh nhân dân không cần công chứng. Hãy tìm một người có đủ uy tín ở nơi bạn học tập, nơi bạn đang cộng tác viết cho bạn một lá thư giới thiệu.
Chuẩn bị tác phong
Đối với bạn nữ, bạn nên chọn cho mình một chiếc áo sơ mi màu sáng, tốt nhất là màu trắng. Chiếc áo phải kín cổ, tay ngắn để tạo ra nét hài hòa và phải nhớ là không chọn một chiếc áo bó sát.  
Một chiếc quần màu sậm là lựa chọn hoàn hảo nhưng nếu bạn không thích thì một chiếc đầm vẫn được các nhà tuyển dụng hoan nghênh nhưng bạn nên chọn cho mình một chiếc đầm màu sậm, ít họa tiết, tốt nhất là đầm chữ A.
Bạn không nên đi một đôi giày quá cao, việc đó sẽ làm bạn khó di chuyển và tạo ra tiếng động nếu bạn được phỏng vấn trong phòng riêng. Tốt nhất bạn hãy chọn cho mình một đôi giày có quai ở phía sau và trùng với màu của chiếc quần (đầm) của bạn.
Trang phục của nam đơn giản hơn nữ rất nhiều. Bạn nam cũng nên chọn cho mình một chiếc áo sơ mi màu sáng. Bạn phải chú ý nhé, cái này hơi khác với bạn nữ, chiếc áo sơ mi của bạn phải là sơ mi tay dài, bạn có thể gấp lên 1 vài lần ở tay áo để cảm thấy thoải mái.
Với các bạn nam nhất thiết phải mặc quần tây, sậm màu, dài qua mắt cá chân. Hãy chọn cho mình một chiếc thắt lưng màu sậm. Nhớ đấy, bạn phải sử dụng chiếc thắt lưng đó.
Đôi giày cũng cực kì quan trọng, bạn nên chọn một đôi trùng màu với chiếc quần và có quai ở đằng sau. Hãy chú ý đến đôi giày của mình, không nên mang những đôi giày cũ kỹ, sờn da. Ít nhất, bạn cũng nên lau qua.

Tìm hiểu thông tin tuyển dụng và có một hồ sơ xin việc đầy đủ, ấn tượng
sẽ giúp bạn có nhiều cơ hội tìm được việc làm.
Chuẩn bị những câu hỏi
Trong một cuộc phỏng vấn, thường thì phỏng vấn viên sẽ hỏi một số câu để kiểm tra bạn có cái gì để có thể đáp ứng được yêu cầu của họ. Chẳng hạn, họ sẽ hỏi: Hãy cho tôi biết về bạn? Vì sao bạn muốn làm việc tại công ty chúng tôi? Điều gì khiến bạn quyết định tham dự cuộc phỏng vấn này? Tại sao tôi phải chọn bạn? Nếu bạn vào làm ở đây, bạn nghĩ công ty chúng tôi phải trả lương bao nhiêu cho bạn?
Đối với những câu hỏi trên bạn phải cố gắng nhấn mạnh phần kinh nghiệm, những hoạt động tình nguyện bạn đã tham gia. Cố gắng tránh nói đến tiền bạc.
Phỏng vấn viên cũng sẽ hỏi một vài câu không có đáp án. Chẳng hạn như làm thế nào để quả trứng rơi xuống sàn nhà mà không vỡ? Có bao nhiêu nắp cống ở thành phố Hồ Chí Minh. Bạn phải bình tĩnh, hãy nói là "Câu này em không thể trả lời được nhưng nếu anh, chị cho em thời gian em sẽ đi tìm đáp án".
Đến phỏng vấn
Hãy tới sớm 10 đến 15 phút, hít thở thật sâu. Nếu bạn đến sau hãy lịch sự ngồi sau những người đến trước.
Hãy chú ý gõ cửa trước khi vào, cho dù của đang mở bạn vẫn phải gõ. Chờ họ bắt tay và mời ngồi mới được ngồi. Bạn hãy ngồi xuống nhẹ nhàng, bỏ cặp táp xuống dưới chân ghế bạn ngồi. Đừng nhìn lên đồng hồ treo tường hay cánh cửa ra vào. Hãy chọn cho mình ngồi chéo với phỏng vấn viên, hãy nhìn vào họ và suy nghĩ thật kĩ trước khi trả lời bất cứ cái gì họ hỏi.
Hãy nhớ đóng cửa phòng trước khi rời khỏi đó. Nếu phỏng vấn viên nói "Chúng tôi rất cảm ơn bạn đã đến buổi phỏng vấn, hồ sơ của bạn không đủ yêu cầu của chúng tôi". Bạn đừng vội buồn, phỏng vấn viên không có quyền quyết định hồ sơ của bạn có trúng tuyển hay không trúng tuyển ngay lúc đó. Hãy bình tĩnh, cảm ơn họ và ra về.
Viết thư cảm ơn
Khi kết thúc cuộc phỏng vấn, bạn nên viết một lá thư cảm ơn. Nhà tuyển dụng sẽ đánh giá cao hành động đó của bạn, vì họ nghĩ bạn là người chu toàn.
Lời khuyên ở đây là hãy gửi thư sớm. Thư phải là của bạn. Văn phong khúc chiết tập trung vào nội dung trọng tâm lời hứa hẹn. Đừng viết sai tên, chức vụ của người mình muốn gửi.
Trong thư cảm ơn, hãy nhấn mạnh bạn đủ khả năng để làm việc tại công ty của họ trong chức vụ đó. Cảm ơn họ một lần nữa. Hứa hẹn và ghi địa chỉ liên hệ của bạn vào cuối thư.
 
TÂM AN

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Chương trình tọa đàm "Hoàng Sa - Trường Sa, biển đảo thiêng liêng"

Chương trình tọa đàm "Hoàng Sa - Trường Sa, biển đảo thiêng liêng"

Nhằm mục đích giới thiệu đến sinh viên về lịch sử xây dựng và bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như đời sống cư dân và sinh hoạt của những người lính đảo hiện nay; tổ chức thảo luận về vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này, Câu lạc bộ Sử học trẻ - Đoàn khoa Lịch sử phối hợp với Chi Hội Khoa Học Lịch Sử Lê Quý Đôn – Hội Khoa Học Lịch Sử TP. Hồ Chí Minh tổ chức buổi toạ đàm “Hoàng Sa - Trường Sa, biển đảo thiêng liêng”. Diễn giả của buổi toạ đàm là PGS.TS Hà Minh Hồng, Trưởng khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH&NV. Ngoài ra buổi toạ đàm sẽ có sự góp mặt của các vị khách mời:
- PGS.TS Đặng Văn Thắng, Phó Chủ Tịch Thường Trực Hội Khoa học Lịch sử TP. HCM.
- Th.S Võ Thị Ánh Tuyết, Thư Kí Hội Khoa học Lịch sử TP. HCM.
- Th.S Huỳnh Bá Lộc, Bí Thư Đoàn Khoa Lịch Sử.
- BCN CLB Cán Bộ Đoàn Ngôi Sao Xanh – Đại Học Nông Lâm TP. HCM.
- BCN CLB Mác Lê - Nin & Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Đại Học Cảnh Sát.
Chương trình sẽ diễn ra vào lúc 8h sáng ngày 24 tháng 5 năm 2012 tại phòng  D401 trường ĐH KHXH&NV cơ sở Đinh Tiên Hoàng.
Ban tổ chức rất mong nhận được sự tham gia nhiệt tình của các bạn sinh viên quan tâm.
 

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Tình yêu cảm hóa

Tình yêu cảm hóa
TT - Rớt nước mắt khi lần đầu tiên được đứa con trai ngỗ nghịch ngày nào chở đi sắm tết, người mẹ ngỡ ngàng trong hạnh phúc, nhìn cậu quý tử đã lột xác hoàn toàn.
Yêu là cùng nhau hướng đến những điều tốt đẹp của cuộc sống - Ảnh: QUÂN NAM
Công đầu trong việc biến một “đứa con hư” như Nguyễn Đỗ Hoàng Tuân (23 tuổi, sinh viên ĐH Hoa Sen) trở thành người con thảo, người trò giỏi thuộc về một cô gái có tên Bùi Thị Ngọc Hân, hiện là sinh viên ĐH KHXH&NV TP.HCM.
Những “phá gia chi tử”
Cô Đỗ Thị Dung (Q. 9, TP.HCM) nhớ lại khoảng thời gian đau buồn trước khi Hân xuất hiện trong đời con trai mình: ngày Tuân vừa tốt nghiệp tiểu học, chồng cô lãnh án chung thân do tội ác đã gây ra. Thần tượng là ba trong Tuân sụp đổ, kéo theo cả sự sụp đổ nhân cách của Tuân. Từ một đứa trẻ nhút nhát, sống tình cảm, Tuân nhập bọn với đám bạn xấu sớm trở thành một “đầu gấu” có tiếng ở trường. “Bao nhiêu tiền tôi cho nó nướng hết vào game online, bàn bida, bia rượu...dù chỉ mới là học sinh cấp II. Khi nào tôi giận không cho tiền thì nó mượn xã hội đen...”- cô Dung bàng hoàng nhớ lại. Cô đã từng có ý định từ con, sớm tống Tuân vào trại cải tạo vì sợ “cha nào con nấy”.
Cũng là cậu ấm, lại là đích tử đích tôn, được cả gia đình đổ tiền chăm chút nên Nguyễn Nam Cường (Q.7, TP.HCM) thể hiện sự hư hỏng ở một đẳng cấp khác. Tuổi mới 25, Cường đã nổi như cồn ở khoản “sát gái” và ăn chơi tới bến. Với bạn bè, Cường được tôn là đại ca bởi khả năng chịu chơi và chịu chi. Với các cô gái, Cường mạnh tay chi cho quần áo hàng hiệu, trang sức mắc tiền. Lo lắng trước lối sống bạt mạng của con, bố mẹ Cường bèn thắt chặt chi tiêu. Bà Lê Quỳnh, mẹ Cường, sụt sùi kể: “Không cấp tiền, nó giận dỗi bỏ nhà đi không biết bao lần. Thậm chí bán xe, điện thoại, đi vay nặng lãi lấy tiền tiêu xài. Gia đình tôi trả nợ cho con đến mức khánh kiệt mà nó chẳng thèm đoái hoài!”.
Tái sinh
Núi vàng ăn mãi cũng lở, đến lúc sa cơ cậu ấm rỗng túi, thế là đàn em, các em gái một lượt phủi tay ra đi. Cậu ấm ngày nào giờ cảm thấy cô đơn cùng cực. Trong lúc đó Hà Ân, cô bạn cũ thầm yêu Cường ngày xưa, vẫn ở bên không xa lánh Cường, đồng cảm với những tâm tư của chàng trai trẻ. Xưa nay chưa từng có ai yêu thương chân tình đến thế nên Cường rất ngạc nhiên rồi cảm động trước tấm lòng của cô bạn. Bao lời mẹ cha khuyên răn, dọa dẫm đều chẳng khiến Cường nao núng, nhưng trước Hà Ân anh bạn lại mềm lòng.
Để chứng tỏ bản lĩnh của mình trước Hà Ân, Cường về nhà bày tỏ với bố mẹ mong muốn thay đổi cuộc sống, cùng lời hứa không chơi bời, chú tâm vào chuyện làm ăn của gia đình. Dù bất ngờ, bà Quỳnh và chồng cũng cho Cường một cơ hội sửa sai. Cường cặm cụi học nghề từ bố, học thêm một số khóa đào tạo kinh doanh. Bố mẹ Cường bắt đầu giao cho Cường quản lý một số cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ.
Trong suốt chặng đường đó, Hà Ân vẫn ngày ngày lo lắng, quan tâm săn sóc Cường... Nhờ có Hà Ân, Cường gần gũi với bố mẹ hơn khi sẵn sàng chở mẹ đi lấy hàng, mua đồ, giúp bố chăm sóc cây cảnh - những việc Cường chẳng bao giờ làm. Cùng với chồng, bà Quỳnh rất an tâm khi tác hợp tình duyên cho đôi bạn trẻ này. Ngày xe duyên đã cận kề, Cường ngại ngùng thừa nhận: “Chính tình yêu chân tình của Hà Ân đã khiến tôi thay đổi đến mức tôi không dám tin”...
Ngày gặp Hân ở ghế đá sân trường, thấy Hân xinh, Tuân lân la làm quen chỉ với ý định “giải khuây”- như Tuân sau này thú thật. Anh chàng không ngờ rằng từ đó, cuộc đời mình lật hẳn sang một trang mới! “Tiếp xúc với Hân, tôi bỗng thấy rung động thật sự trước tâm hồn trong sáng, hướng thiện của Hân. Cả cái cách Hân ham học cũng làm tôi... mê mệt” - “ông trùm cúp cua” năm nào gãi đầu.
Vậy là sáng sáng Tuân lò dò qua lớp Hân cho Hân trả bài, tranh thủ hỏi Hân cách chia thì, đặt câu môn tiếng Anh - vốn là môn tủ của Hân. Tối tối “đôi đũa lệch” lại dắt nhau đến lớp học thêm toán - lý - hóa. “Ngày đó, trường cấp III chúng tôi học rất khắt khe chuyện học sinh cặp bồ, chỉ có cặp Hân - Tuân được cả cô chủ nhiệm, thầy giám thị... ủng hộ hết mình vì lúc nào đi với nhau cũng thấy bàn chuyện bài vở!”, bạn học của Hân tủm tỉm cho biết. Hỏi Hân dùng bí quyết nào cảm hóa được Tuân, cô nàng lắc đầu: “Hân chỉ tìm cách khơi gợi những điều tốt đẹp của Tuân thôi!”.
Còn với Tuân, sự đổi thịt thay da của bản thân là một sự thức tỉnh: “Tôi muốn trở thành một người giống Hân, biết yêu chính bản thân mình và mọi người, được mọi người yêu lại”. Không chỉ tiến bộ vượt bậc về kết quả học tập, được lớp tín nhiệm bầu làm lớp trưởng kiêm luôn bí thư, Tuân cũng mở lòng hơn với mẹ. Ngày Tuân bước vào cổng trường đại học, cô Dung chỉ biết cầm tay Hân khóc nấc: “Con không khác gì ân nhân của gia đình. Cả thằng Tuân và bác như được sinh ra lần nữa!”.
“Tình yêu như một thứ thuốc tinh thần kỳ diệu có sức cảm hóa con người”, thạc sĩ Nguyễn Khắc Hiếu, khoa tâm lý giáo dục ĐH Sư phạm TP.HCM, khẳng định. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào tình yêu cũng có thể cảm hóa. Điều đó chỉ xảy ra khi đối tượng gặp phải một chấn động tâm lý, khiến họ cảm nhận sâu sắc về cách ứng xử bấy lâu nay của mình là không đúng. Ngoài ra, đối tượng phải cảm nhận được một loại tình cảm đặc biệt hơn hẳn bình thường mà chỉ người kia mới có thể mang đến, khi đó người kia mới có thể “trị” được họ, nói họ nghe và họ tình nguyện nghe người đó. Thứ ba, người này phải là người có suy nghĩ để biết thừa nhận khuyết điểm và có đủ ý chí để cải biến chính mình.
H.THI - B.THANH

(Tuổi Trẻ)

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh
 
Với niềm tự hào và biết ơn vô hạn, hôm nay, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta long trọng kỷ niệm 122 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Ðảng ta, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
 


Tên tuổi người thanh niên Nguyễn Tất Thành, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử Ðảng ta, đất nước ta. Những năm 20 của thế kỷ trước, trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tìm thấy ở đó ánh sáng chân lý, từ đó vận dụng sáng tạo vào việc hình thành, phát triển con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Ðó là đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người đã dày công sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Ðảng ta. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Ðông - Nam Á. Với ý chí kiên cường, bất khuất "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"; "Không có gì quý hơn độc lập tự do", nhân dân ta tiến hành các cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng đánh bại các thế lực thực dân, đế quốc hung bạo, giành được những thắng lợi vĩ đại, mà đỉnh cao là Chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 và Ðại thắng Mùa xuân năm 1975, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên CNXH.
Với những thắng lợi vĩ đại đã giành được trong hơn 80 năm qua kể từ ngày có Ðảng, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HÐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Công cuộc đổi mới sau hơn 25 năm đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực mới để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Trong bối cảnh phải vượt qua mọi khó khăn, thách thức để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng, nhất là Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI): "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân; trọn đời chăm lo xây dựng Ðảng ta trở thành Ðảng cách mạng chân chính. Trước lúc đi xa, Người căn dặn trong Di chúc: "Ðảng ta là một Ðảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng về tư tưởng, đạo đức cách mạng và phong cách của người cộng sản chân chính. Người mong muốn trong Ðảng ta thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Ðảng. Người luôn nhắc nhở, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải "Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình". Người coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc tốt nhất để rèn luyện cán bộ, đảng viên nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Người chỉ rõ "Một Ðảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Ðảng hỏng"...
Ðể xây dựng Ðảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Ðảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, từng tổ chức đảng và đảng viên đã và đang triển khai thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) về xây dựng Ðảng gắn với việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với những chủ trương và giải pháp cụ thể. Qua đợt sinh hoạt chính trị quan trọng này, phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Ðảng, nhằm xây dựng Ðảng ta thật sự là Ðảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng, củng cố niềm tin trong Ðảng và nhân dân, động viên toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Ðảng. Ðây chính là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HÐH vì mục tiêu, lý tưởng cao cả: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta nguyện suốt đời học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ, đảng viên gương mẫu, nghe dân, hiểu dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Nhân Dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên


 Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên 

Trong Di chúc trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Thanh niên tình nguyện ra sức bảo vệ môi trường
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là hệ thống nhận thức tư duy, quan điểm lý luận của người về những vấn đề quan trọng: Nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí của thanh niên trong tiến trình lịch sử qua các thời kỳ cách mạng; đường lối nội dung bồi dưỡng, giáo dục - đào tạo thanh niên thành lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; nhiệm vụ công tác thanh niên của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đội dự bị tin cậy của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tiềm năng, vai trò, vị trí to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, luôn tin tưởng và nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển. Ngay từ khi đất nước còn trong đêm đen nô lệ, Người đã nêu tư tưởng: Thức tỉnh thanh niên để đi đến thức tỉnh dân tộc. Vào những năm đầu khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”(1). Người cho rằng sự phát triển trong tương lai của đất nước và tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay thanh thiếu nhi. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Thanh niên “phải tham gia ý kiến vào công việc của chính phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện từ bây giờ để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác những việc trọng đại của nước nhà”(2).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của thanh niên trên cả hai bình diện xã hội và mối quan hệ kết nối quá khứ với tương lai không thể tách rời nhau: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”(3). Vai trò này vô cùng quan trọng quyết định vận mệnh của dân tộc và của giai cấp công nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin và mong đợi ở thanh niên. Người đưa ra dự báo hết sức đúng đắn mà nay đã trở thành hiện thực: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”(4). 

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển và toàn diện. Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải tránh thái độ thành kiến, hẹp hòi, bảo thủ, cô độc đối với thanh niên. Bởi theo người, thanh niên sống trong điều kiện mới tất yếu có những nhu cầu, lợi ích khác với cha, anh họ, không nên xem xét thanh niên một cách cứng nhắc, trước sao nay vậy. Người nói: cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực.

Trên cơ sở nhìn nhận vai trò quyết định của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng và tương lai của dân tộc, đất nước, Người đã dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác thanh niên. Chính người đã sáng lập, rèn luyện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhà nước đề ra các chính sách thanh niên phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, đặc biệt là về mặt giáo dục, đào tạo. Công tác thanh niên mà cơ bản là đào tạo, giáo dục, phát huy thanh niên theo Người là quá trình tác động đồng bộ của các chủ thể từ gia đình, đoàn thể, xã hội cho đến các cấp ủy đảng và chính quyèn. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(5). Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho Đảng và dân tộc, Bác còn căn dặn: Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết.

Nội dung bao quát của công tác thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình thành “lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”. “Hồng” theo tư tưởng của Người là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”(6); còn “chuyên” là trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự.

Để thực hiện nội dung và mục đích của công tác thanh niên không có cách nào khác là giáo dục và tổ chức thanh niên. Vấn đề quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu là phải tổ chức thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu chung quanh Đảng. Tổ chức tập hợp thanh niên là điều kiện để giáo dục và ngược lại phải tiến hành đào tạo, giáo dục thanh niên qua tổ chức. Phải kiên trì xây dựng một tổ chức thanh niên cộng sản làm cánh tay và đội hậu bị của Đảng.

Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II (1956), Người dạy: “Đoàn là cánh tay đắc lực của Đảng để thực hiện những chủ trương, chính sách cách mạng”(7), Người còn căn dặn: “Phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ và phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên”(8). Theo Người, củng cố tổ chức đoàn là điều kiện tiên quyết để mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên. Nhưng muốn củng cố tổ chức đoàn thì trước hết phải “đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ” để thống nhất ý chí và hành động trong nội bộ đoàn, làm cho tổ chức đoàn thật sự là tổ chức của những thanh niên tiên tiến, có lý tưởng cách mạng và phấn đấu kiên định vì lý tưởng đó. Tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người chỉ rõ: “Đoàn thanh niên lao động - phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục các thế hệ thanh niên, nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(9). Đây là một chức năng hết sức quan trọng của tổ chức đoàn với tư cách là một tổ chức quần chúng gần Đảng nhất mà trong Điều lệ Đảng từ trước đến nay đều ghi rõ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn phải ra sức đoàn kết, tập hợp thanh niên thành một mặt trận rộng lớn. Theo Người, đoàn kết tập hợp thanh niên là mặt công tác lớn, một nhiệm vụ rất quan trọng của Đoàn. Người yêu cầu tổ chức đoàn phải nghiên cứu tìm ra những hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc. Các hình thức và phương pháp đó vừa thu hút rộng rãi thanh niên tham gia nhưng phải được định hướng vững chắc, nghĩa là có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có tính ổn định và triển vọng phát triển. Theo Người, muốn củng cố và phát triển Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống công tác, học tập của thanh niên và tất cả đoàn viên phải gương mẫu. Trong công tác xây dựng đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý về việc phải phát triển đoàn viên về số lượng đồng thời phải coi trọng việc nâng cao chất lượng. Người dạy: Tổ chức Đoàn phải rộng hơn Đảng… cố nhiên khi kết nạp đoàn viên cần phải lựa chọn cẩn trọng những thanh niên tốt.

Là người sáng lập và rèn luyện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bác Hồ luôn chú trọng vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên và công tác đoàn. Người căn dặn: “Chi bộ phải chăm lo xây dựng Đoàn thanh niên cho thật tốt”, đồng thời: “Trung ương và các cấp đảng bộ địa phương phải chăm sóc hơn nữa đến công tác thanh niên” trong đó vấn đề quan trọng là chăm lo công tác xây dựng đoàn để “phát huy tác dụng tiên phong của Đoàn về mọi mặt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất coi trọng vai trò của nhà nước trong công tác thanh niên. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ Thanh niên rồi Nha Thanh niên trong chính phủ để chăm lo công tác thanh niên. Người căn dặn công tác thanh niên “phải liên hệ với các lực lượng của chính phủ”. Điều này có nghĩa là muốn đưa công tác thanh niên đạt đến kết quả như mong muốn, trước hết Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo và tổ chức sự phối hợp giữa nhiều lực lượng trong đó Chính phủ.

Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là sự tổng kết lý luận và thực tiễn được nâng lên tầm cao qua các thời kỳ cách mạng, đang và sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng, tổ chức thanh niên thành lực lượng cách mạng, phát huy mọi tiềm năng to lớn của thanh niên vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; vì hạnh phúc, tương lai tương sáng của tuổi trẻ.
LÊ VĂN RI
(Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng)
( Sinh viên Khoa Giáo Dục  trong Xuân Tình Nguyện 2011 tại Tiền Giang)